Những người đưa yêu cầu công việc cho Product Design - Chia theo mô hình công ty
Những người đưa yêu cầu công việc cho Product Design - Chia theo mô hình công ty
Business Model
#
3-3
Những người đưa yêu cầu công việc cho Product Design - Chia theo mô hình công ty
Những người đưa yêu cầu công việc cho Product Design - Chia theo mô hình công ty
overview
Trong tập được khảo sát, các designer làm việc ở công ty Product-Driven có xu hướng được trao quyền nhiều hơn trong việc research tổng thể trên mọi phương pháp, từ khám phá vấn đề, tiếp cận người dùng thực tế, đến sử dụng dữ liệu nội bộ. Điều này khác với các designer tham gia khảo sát đến từ môi trường Outsourcing và Agency, nơi vai trò của designer thường bắt đầu từ brief và tài liệu do khách hàng cung cấp, ít quyền truy cập vào hệ thống hay người dùng cuối.
All Types
Nhóm designer thuộc công ty Product-driven thường xuyên thực hiện các phương pháp liên quan đến dữ liệu và nghiên cứu sơ cấp hơn
Tỷ lệ thực hiện các hoạt động liên quan đến dữ liệu như Default & Custom Data Tracking Report, và các phương pháp nghiên cứu sơ cấp khác như User Interview, Field Study, và Moderated & Unmoderated Usability Testing của nhóm designer thuộc công ty Product-Driven tham gia khảo sát cao hơn rõ rệt so với designer thuộc công ty Outsourcing, Agency. Điều này có thể gợi ý rằng ở môi trường công ty Product-Driven, designer có sự chủ động và quyền truy cập vào hệ thống dữ liệu và tiếp cận người dùng thật.
Designer trong công ty Outsourcing và Agency phụ thuộc nhiều vào tài liệu do khách hàng cung cấp
Tỷ lệ designer thực hiện Nghiên cứu từ Client Documentation tại công ty Outsourcing và Agency cao hơn đáng kể so với Product-Driven, cụ thể là Outsourcing 80%, Agency 78%, và Product-Driven 49%. Đây cũng là một trong các phương pháp có tỷ lệ thực hiện cao nhất trong giai đoạn Discovery của designer thuộc công ty Outsourcing và Agency.
overview
Trong tập được khảo sát, các designer làm việc ở công ty Product-Driven có xu hướng được trao quyền nhiều hơn trong việc research tổng thể trên mọi phương pháp, từ khám phá vấn đề, tiếp cận người dùng thực tế, đến sử dụng dữ liệu nội bộ. Điều này khác với các designer tham gia khảo sát đến từ môi trường Outsourcing và Agency, nơi vai trò của designer thường bắt đầu từ brief và tài liệu do khách hàng cung cấp, ít quyền truy cập vào hệ thống hay người dùng cuối.
Nhóm designer thuộc công ty Product-driven thường xuyên thực hiện các phương pháp liên quan đến dữ liệu và nghiên cứu sơ cấp hơn
Tỷ lệ thực hiện các hoạt động liên quan đến dữ liệu như Default & Custom Data Tracking Report, và các phương pháp nghiên cứu sơ cấp khác như User Interview, Field Study, và Moderated & Unmoderated Usability Testing của nhóm designer thuộc công ty Product-Driven tham gia khảo sát cao hơn rõ rệt so với designer thuộc công ty Outsourcing, Agency. Điều này có thể gợi ý rằng ở môi trường công ty Product-Driven, designer có sự chủ động và quyền truy cập vào hệ thống dữ liệu và tiếp cận người dùng thật.
Designer trong công ty Outsourcing và Agency phụ thuộc nhiều vào tài liệu do khách hàng cung cấp
Tỷ lệ designer thực hiện Nghiên cứu từ Client Documentation tại công ty Outsourcing và Agency cao hơn đáng kể so với Product-Driven, cụ thể là Outsourcing 80%, Agency 78%, và Product-Driven 49%. Đây cũng là một trong các phương pháp có tỷ lệ thực hiện cao nhất trong giai đoạn Discovery của designer thuộc công ty Outsourcing và Agency.
overview
Trong tập được khảo sát, các designer làm việc ở công ty Product-Driven có xu hướng được trao quyền nhiều hơn trong việc research tổng thể trên mọi phương pháp, từ khám phá vấn đề, tiếp cận người dùng thực tế, đến sử dụng dữ liệu nội bộ. Điều này khác với các designer tham gia khảo sát đến từ môi trường Outsourcing và Agency, nơi vai trò của designer thường bắt đầu từ brief và tài liệu do khách hàng cung cấp, ít quyền truy cập vào hệ thống hay người dùng cuối.
Nhóm designer thuộc công ty Product-driven thường xuyên thực hiện các phương pháp liên quan đến dữ liệu và nghiên cứu sơ cấp hơn
Tỷ lệ thực hiện các hoạt động liên quan đến dữ liệu như Default & Custom Data Tracking Report, và các phương pháp nghiên cứu sơ cấp khác như User Interview, Field Study, và Moderated & Unmoderated Usability Testing của nhóm designer thuộc công ty Product-Driven tham gia khảo sát cao hơn rõ rệt so với designer thuộc công ty Outsourcing, Agency. Điều này có thể gợi ý rằng ở môi trường công ty Product-Driven, designer có sự chủ động và quyền truy cập vào hệ thống dữ liệu và tiếp cận người dùng thật.
Designer trong công ty Outsourcing và Agency phụ thuộc nhiều vào tài liệu do khách hàng cung cấp
Tỷ lệ designer thực hiện Nghiên cứu từ Client Documentation tại công ty Outsourcing và Agency cao hơn đáng kể so với Product-Driven, cụ thể là Outsourcing 80%, Agency 78%, và Product-Driven 49%. Đây cũng là một trong các phương pháp có tỷ lệ thực hiện cao nhất trong giai đoạn Discovery của designer thuộc công ty Outsourcing và Agency.
Product-driven
Designer trong công ty Product-Driven thực hiện khai thác dữ liệu thường xuyên hơn nhưng vẫn chưa phổ biến rộng rãi
Các hoạt động khai thác dữ liệu như Default & Custom Data Tracking Report có tỷ lệ thực hiện cao hơn đáng kể ở nhóm designer trong công ty Product, cụ thể Default Data Tracking Report 68%, Custom Data Tracking Report 56%, so với tương ứng lần lượt 31% và 26% ở nhóm designer thuộc công ty Outsourcing, 41% và 37% ở nhóm thuộc công ty Agency.
Tuy vậy, tỷ lệ designer thực hiện thường xuyên các hoạt động này vẫn còn khiêm tốn nếu so với các phương pháp quen thuộc như Visual Research hay Competitive Analysis. Điều này cho thấy chỉ một nhóm nhỏ designer trong tập được khảo sát đã bắt đầu áp dụng tư duy data-informed, trong khi phần lớn vẫn thiên về các phương pháp nhanh, linh hoạt, ít phụ thuộc kỹ thuật. Có thể suy đoán rằng, dữ liệu bắt đầu có vai trò trong thiết kế nhưng chưa thực sự trở thành tiêu chuẩn chung trong công ty Product-Driven.
Designer trong công ty Product-Driven thực hiện khai thác dữ liệu thường xuyên hơn nhưng vẫn chưa phổ biến rộng rãi
Các hoạt động khai thác dữ liệu như Default & Custom Data Tracking Report có tỷ lệ thực hiện cao hơn đáng kể ở nhóm designer trong công ty Product, cụ thể Default Data Tracking Report 68%, Custom Data Tracking Report 56%, so với tương ứng lần lượt 31% và 26% ở nhóm designer thuộc công ty Outsourcing, 41% và 37% ở nhóm thuộc công ty Agency.
Tuy vậy, tỷ lệ designer thực hiện thường xuyên các hoạt động này vẫn còn khiêm tốn nếu so với các phương pháp quen thuộc như Visual Research hay Competitive Analysis. Điều này cho thấy chỉ một nhóm nhỏ designer trong tập được khảo sát đã bắt đầu áp dụng tư duy data-informed, trong khi phần lớn vẫn thiên về các phương pháp nhanh, linh hoạt, ít phụ thuộc kỹ thuật. Có thể suy đoán rằng, dữ liệu bắt đầu có vai trò trong thiết kế nhưng chưa thực sự trở thành tiêu chuẩn chung trong công ty Product-Driven.
Designer trong công ty Product-Driven thực hiện khai thác dữ liệu thường xuyên hơn nhưng vẫn chưa phổ biến rộng rãi
Các hoạt động khai thác dữ liệu như Default & Custom Data Tracking Report có tỷ lệ thực hiện cao hơn đáng kể ở nhóm designer trong công ty Product, cụ thể Default Data Tracking Report 68%, Custom Data Tracking Report 56%, so với tương ứng lần lượt 31% và 26% ở nhóm designer thuộc công ty Outsourcing, 41% và 37% ở nhóm thuộc công ty Agency.
Tuy vậy, tỷ lệ designer thực hiện thường xuyên các hoạt động này vẫn còn khiêm tốn nếu so với các phương pháp quen thuộc như Visual Research hay Competitive Analysis. Điều này cho thấy chỉ một nhóm nhỏ designer trong tập được khảo sát đã bắt đầu áp dụng tư duy data-informed, trong khi phần lớn vẫn thiên về các phương pháp nhanh, linh hoạt, ít phụ thuộc kỹ thuật. Có thể suy đoán rằng, dữ liệu bắt đầu có vai trò trong thiết kế nhưng chưa thực sự trở thành tiêu chuẩn chung trong công ty Product-Driven.
Outsourcing
Designer trong công ty Outsourcing phụ thuộc nhiều vào tài liệu từ phía khách hàng
Cũng như xu hướng phổ biến trong ngành, designers tại các công ty outsourcing trong tập được khảo sát hiếm khi thực hiện nghiên cứu sơ cấp, đặc biệt là các hoạt động yêu cầu tương tác với người dùng thực hoặc can thiệp vào hệ thống phân tích. Thay vào đó, họ phụ thuộc lớn vào tài liệu khách hàng cung cấp, với mức độ thường xuyên thực hiện Nghiên cứu Client Documentation là 46%, bên cạnh các hình thức nghiên cứu thứ cấp như Visual Research hoặc Competitive Analysis để nhanh chóng hiểu yêu cầu và đưa ra giải pháp phù hợp. Điều này có thể lý giải là do mô hình làm việc gia công của môi trường Outsourcing, nơi mà thời gian, phạm vi và dữ liệu đều do client kiểm soát, khiến team khó chủ động triển khai các phương pháp nghiên cứu sâu.
Designer trong công ty Outsourcing hầu như không thực hiện thường xuyên các công việc liên quan đến dữ liệu
Hầu hết các đầu việc liên quan đến dữ liệu đều chủ yếu là “làm không thường xuyên”, chỉ có lác đác một vài designer làm thường xuyên, như Default Data Tracking Report & Custom Data Tracking Report đều chỉ có 3% designer thuộc nhóm Outsourcing làm thường xuyên, Survey thì có 9%.
Điều đó có thể phản ánh khả năng tiếp cận dữ liệu người dùng thật là rất hạn chế. Cũng dễ giải thích bởi những công việc này thường đòi hỏi quyền truy cập hệ thống, công cụ tracking, hoặc nguồn lực để thu thập và phân tích, trong khi các công ty Outsourcing thường không nắm hệ thống vận hành, mà chỉ thiết kế theo yêu cầu khách hàng.
Designer trong công ty Outsourcing phụ thuộc nhiều vào tài liệu từ phía khách hàng
Cũng như xu hướng phổ biến trong ngành, designers tại các công ty outsourcing trong tập được khảo sát hiếm khi thực hiện nghiên cứu sơ cấp, đặc biệt là các hoạt động yêu cầu tương tác với người dùng thực hoặc can thiệp vào hệ thống phân tích. Thay vào đó, họ phụ thuộc lớn vào tài liệu khách hàng cung cấp, với mức độ thường xuyên thực hiện Nghiên cứu Client Documentation là 46%, bên cạnh các hình thức nghiên cứu thứ cấp như Visual Research hoặc Competitive Analysis để nhanh chóng hiểu yêu cầu và đưa ra giải pháp phù hợp. Điều này có thể lý giải là do mô hình làm việc gia công của môi trường Outsourcing, nơi mà thời gian, phạm vi và dữ liệu đều do client kiểm soát, khiến team khó chủ động triển khai các phương pháp nghiên cứu sâu.
Designer trong công ty Outsourcing hầu như không thực hiện thường xuyên các công việc liên quan đến dữ liệu
Hầu hết các đầu việc liên quan đến dữ liệu đều chủ yếu là “làm không thường xuyên”, chỉ có lác đác một vài designer làm thường xuyên, như Default Data Tracking Report & Custom Data Tracking Report đều chỉ có 3% designer thuộc nhóm Outsourcing làm thường xuyên, Survey thì có 9%.
Điều đó có thể phản ánh khả năng tiếp cận dữ liệu người dùng thật là rất hạn chế. Cũng dễ giải thích bởi những công việc này thường đòi hỏi quyền truy cập hệ thống, công cụ tracking, hoặc nguồn lực để thu thập và phân tích, trong khi các công ty Outsourcing thường không nắm hệ thống vận hành, mà chỉ thiết kế theo yêu cầu khách hàng.
Designer trong công ty Outsourcing phụ thuộc nhiều vào tài liệu từ phía khách hàng
Cũng như xu hướng phổ biến trong ngành, designers tại các công ty outsourcing trong tập được khảo sát hiếm khi thực hiện nghiên cứu sơ cấp, đặc biệt là các hoạt động yêu cầu tương tác với người dùng thực hoặc can thiệp vào hệ thống phân tích. Thay vào đó, họ phụ thuộc lớn vào tài liệu khách hàng cung cấp, với mức độ thường xuyên thực hiện Nghiên cứu Client Documentation là 46%, bên cạnh các hình thức nghiên cứu thứ cấp như Visual Research hoặc Competitive Analysis để nhanh chóng hiểu yêu cầu và đưa ra giải pháp phù hợp. Điều này có thể lý giải là do mô hình làm việc gia công của môi trường Outsourcing, nơi mà thời gian, phạm vi và dữ liệu đều do client kiểm soát, khiến team khó chủ động triển khai các phương pháp nghiên cứu sâu.
Designer trong công ty Outsourcing hầu như không thực hiện thường xuyên các công việc liên quan đến dữ liệu
Hầu hết các đầu việc liên quan đến dữ liệu đều chủ yếu là “làm không thường xuyên”, chỉ có lác đác một vài designer làm thường xuyên, như Default Data Tracking Report & Custom Data Tracking Report đều chỉ có 3% designer thuộc nhóm Outsourcing làm thường xuyên, Survey thì có 9%.
Điều đó có thể phản ánh khả năng tiếp cận dữ liệu người dùng thật là rất hạn chế. Cũng dễ giải thích bởi những công việc này thường đòi hỏi quyền truy cập hệ thống, công cụ tracking, hoặc nguồn lực để thu thập và phân tích, trong khi các công ty Outsourcing thường không nắm hệ thống vận hành, mà chỉ thiết kế theo yêu cầu khách hàng.
Agency
Designer trong công ty Agency ưu tiên tài liệu từ client và cách tiếp cận nhanh gọn hơn nghiên cứu chuyên sâu
Trong giai đoạn Discovery, ở nhóm designer thuộc công ty Agency, Competitive Analysis và Nghiên cứu Case Study dù có tỷ lệ thực hiện chung cao nhưng tỷ lệ thực hiện thường xuyên lại thấp hơn các phương pháp khác. Một vài đầu việc có tỷ lệ thường xuyên thực hiện gần 50% như Client Documentation, User Acting.
Điều này có thể cho thấy rằng các phương pháp như phân tích đối thủ hay nghiên cứu case thường chỉ được sử dụng khi cần, không phải là hoạt động diễn ra đều đặn. Ngược lại, việc các đầu việc như Client Documentation hay User Acting được thực hiện thường xuyên hơn có thể phản ánh xu hướng designer trong môi trường Agency tận dụng tài liệu từ client và các phương pháp mô phỏng để hiểu nhanh yêu cầu, phù hợp với đặc điểm làm việc theo brief và thời gian giới hạn.
Designer trong công ty Agency ưu tiên tài liệu từ client và cách tiếp cận nhanh gọn hơn nghiên cứu chuyên sâu
Trong giai đoạn Discovery, ở nhóm designer thuộc công ty Agency, Competitive Analysis và Nghiên cứu Case Study dù có tỷ lệ thực hiện chung cao nhưng tỷ lệ thực hiện thường xuyên lại thấp hơn các phương pháp khác. Một vài đầu việc có tỷ lệ thường xuyên thực hiện gần 50% như Client Documentation, User Acting.
Điều này có thể cho thấy rằng các phương pháp như phân tích đối thủ hay nghiên cứu case thường chỉ được sử dụng khi cần, không phải là hoạt động diễn ra đều đặn. Ngược lại, việc các đầu việc như Client Documentation hay User Acting được thực hiện thường xuyên hơn có thể phản ánh xu hướng designer trong môi trường Agency tận dụng tài liệu từ client và các phương pháp mô phỏng để hiểu nhanh yêu cầu, phù hợp với đặc điểm làm việc theo brief và thời gian giới hạn.
Designer trong công ty Agency ưu tiên tài liệu từ client và cách tiếp cận nhanh gọn hơn nghiên cứu chuyên sâu
Trong giai đoạn Discovery, ở nhóm designer thuộc công ty Agency, Competitive Analysis và Nghiên cứu Case Study dù có tỷ lệ thực hiện chung cao nhưng tỷ lệ thực hiện thường xuyên lại thấp hơn các phương pháp khác. Một vài đầu việc có tỷ lệ thường xuyên thực hiện gần 50% như Client Documentation, User Acting.
Điều này có thể cho thấy rằng các phương pháp như phân tích đối thủ hay nghiên cứu case thường chỉ được sử dụng khi cần, không phải là hoạt động diễn ra đều đặn. Ngược lại, việc các đầu việc như Client Documentation hay User Acting được thực hiện thường xuyên hơn có thể phản ánh xu hướng designer trong môi trường Agency tận dụng tài liệu từ client và các phương pháp mô phỏng để hiểu nhanh yêu cầu, phù hợp với đặc điểm làm việc theo brief và thời gian giới hạn.
Question
Đâu là loại công ty có thể giúp bạn phát huy tốt nhất năng lực của bạn thân và bạn cần rèn luyện thêm những kỹ năng gì để có cơ hội tốt nhất ở đó?
Opportunities
Dù bạn đang làm ở môi trường Outsourcing, Agency hay Product-Driven, mỗi nơi đều có cơ hội riêng để phát triển kỹ năng nghiên cứu. Ở Outsourcing/Agency, bạn có thể rèn luyện tư duy phân tích từ brief và dữ liệu gián tiếp. Khi làm được điều này, bạn không chỉ nâng cao giá trị cá nhân trong từng dự án, mà còn rèn luyện kỹ năng cần thiết để phát triển sự nghiệp trong môi trường Product-Driven nếu bạn hướng tới điều đó.
Còn ở Product, bạn có điều kiện tiếp cận người dùng và dữ liệu nội bộ để hiểu sâu vấn đề và thiết kế giải pháp sát thực hơn, hãy tận dụng điều kiện này để hiểu vấn đề từ gốc và thiết kế giải pháp có căn cứ vững chắc hơn.
Phân tích liên quan:
Copyright © 2025 UX Foundation.
All Rights Reserved
Copyright © 2025 UX Foundation.
All Rights Reserved
© 2025 UX Foundation.
All Rights Reserved